1000 năm đô hộ giặc tàu 100 năm đô hộ giặc tây 20 năm nội chiến từng ngày


Nguyễn Văn Lực

Pagode De MOT COT couleurSo với cuộc sống ngoài Bắc, bữa đói bữa no, lo từng bữa ăn thì đây phải nói là thiên đường. Bất cứ điều gì khác với những gì tôi viết thường là tuyên truyền của cộng sản vào thời điểm đó. Không có sốt rét, không có nước của mẹ!

Trước 1975 có nhạc của Trịnh Công Sơn (TCS), Tài sản của mẹ , được Khánh Ly hát thấm đẫm niềm tự hào dân tộc, nói lên nỗi tủi nhục của người dân trong một nước yếu.

Bài hát có nội dung như sau:

“Nghìn năm nô lệ giặc Tàu”
Trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Tài sản thừa kế của mẹ tôi để lại cho tôi
Di sản của người mẹ Việt Nam buồn…”

Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói khoa trương của một nghệ sĩ, còn có tiếng nói của lịch sử, và lịch sử có tiếng nói của nó, và đó là trọng tâm của bài viết này.

Vì vậy, ở đây cũng cần nhắc lại, về phía những người cộng sản, sau 1975, họ cũng nhắc lại quá khứ lịch sử của Việt Nam, cũng 1000 năm chống Tàu, cũng 100 năm chống Tây.

Dĩ nhiên, tiếng hát của TCS và quan điểm của cộng sản không cùng tần số: một bên là tự hào dân tộc, một bên là tham vọng chính trị.

Vậy đâu là sự thật lịch sử? Sự thật lịch sử có thể không ở cả hai phía! Một bên coi nô lệ, bên kia coi chiến đấu!

Người ta còn nhớ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, một trong những nhân vật Việt Nam quan trọng nhất của cộng sản, ngay cả khi đã về hưu, đã có dịp sang thăm Singapore vào tháng 10 năm 1993. Ông đã than thở với ông Lý Quang Diệu như sau:

Đỗ Mười. Nguồn: OntheNet
Đỗ Mười. Nguồn: OntheNet

“Ông nói với nỗi buồn về quá khứ bất hạnh của Việt Nam – 1.000 năm đánh Tàu, 100 năm chống thực dân và đế quốc Pháp, rồi đấu tranh giành độc lập sau thế chiến thứ hai. Họ đã phải chiến đấu với Nhật, Pháp, Mỹ và sau đó là bè lũ Pol Pot. Ông không đề cập đến cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979. Trong 140 năm, người Việt Nam đã chiến đấu thành công để giải phóng đất nước của họ. Vết thương chiến tranh của họ rất sâu, công nghiệp của họ yếu kém, công nghệ lạc hậu, cơ sở hạ tầng của họ tồi tệ.”(1)

“Ông ấy [Đỗ Mười] buồn bã phàn nàn với tôi về số phận bất hạnh của Việt Nam trong quá khứ. 1.000 năm chống Tàu, 100 năm còn lại chống thực dân, đế quốc Pháp và sau đó là đấu tranh giành độc lập sau chiến tranh thế giới thứ hai. Họ phải lo chống Nhật, chống Pháp, chống Mỹ và sau này là chống tập đoàn Pol Pot. Ông không đề cập đến cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979. Trong 140 năm, người Việt Nam đã tiến hành thành công cuộc chiến tranh giải phóng đất nước của họ. Vết thương chiến tranh còn lâu mới lành, công nghiệp của họ còn yếu, công nghệ lạc hậu, cơ sở hạ tầng của họ thật đáng thương.”

Đây là một lập luận cộng sản quá quen thuộc.

Một mặt đổ lỗi cho chiến tranh về mọi hậu quả tai hại của nó, mặt khác lại trốn tránh mọi trách nhiệm mà mình là nguyên nhân chính. Mặt khác, họ tự hào một cách lố bịch về khả năng đánh bại mọi thế lực thù địch trên thế giới, kể cả Trung Quốc nếu Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam.

Ông Lý Quang Diệu, trong cuộc gặp đầu tiên với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đã có một vài nhận xét ngắn gọn, cho thấy sự ngạo mạn vô lý cũng như logic cứng nhắc của những người cộng sản như sau:

Phạm Văn Đồng đến Singapore gặp Lý Quang Diệu. Nguồn: kinhnghiemsingapore.wordpress.com
Phạm Văn Đồng sang Singapore gặp Lý Quang Diệu (1978). Nguồn: Kinhhiemsingapore.wordpress.com

“Anh ấy đến vào ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi thấy anh ấy kiêu ngạo và khó chịu. […] Bây giờ, Phạm Văn Đồng, một ông già 72 tuổi, tỏ ra cứng rắn như đinh đóng cột. (…) Singapore đã được hưởng lợi từ chiến tranh Việt Nam, bán vật liệu chiến tranh cho người Mỹ, vì vậy nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp đỡ họ. Tôi chết lặng trước thái độ ngạo mạn và hiếu chiến của họ.”(2)

Ông đến thăm Singapore vào ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi nhận thấy ở ông một thái độ trịch thượng khinh khi. […] Phạm Văn Đồng lúc đó đã 72 tuổi nhưng người vẫn cứng như đinh đóng cột. (…) Ông cho rằng Singapore được thừa hưởng những lợi lộc từ chiến tranh Việt Nam như bán vật liệu chiến tranh cho Mỹ, nay đến lượt Singapore phải có nghĩa vụ giúp đỡ họ. Tôi choáng váng trước thái độ trịch thượng và hung hăng của họ.

Bài viết này được viết ra để nhìn lại và làm sáng tỏ những ngộ nhận nhằm lật tẩy lịch sử và che đậy những ý đồ đen tối về lịch sử dân tộc Việt Nam.

Về 1000 năm nô lệ giặc Tàu

Nước ta và Trung Quốc năm 2000 lịch sử, ta ở phía Nam, Trung Quốc ở phía Bắc. Trên thực tế, biên giới nó không được phân định đơn giản và cố định như vậy. Không có sự phân định rõ ràng: Nam Quốc Sơn Hà Nam Hoàng Đế . Điều đó đang được nói, chúng tôi chỉ có thể nhận được nó!

Ngược lại, lịch sử cho thấy các vùng địa lý hai bên Bắc-Nam thay đổi theo thời gian, biến đổi không ngừng.

Nếu có cái gọi là biên giới, thì đó là ranh giới vô định hình giữa Bắc và Nam.

Nhưng nhìn chung, hai bên đã có những mối quan hệ mang tính sống còn mang tính khu vực-liên ngành về mặt địa lý, xã hội, văn hóa và đặc biệt là chủng tộc.

Người Hoa có cách phân biệt dòng Hoa – tộc Hán – gốc Sinitic và các vùng biên giới – thuộc dòng rợ, phi Sinitic.

Đất nước chúng tôi thuộc về vùng biên giới và bị coi là một chủng tộc man di và mọi rợ!

Chúng ta đừng bàn đúng sai về nhận định của người Trung Quốc!

Gần đây, tôi đọc một tài liệu có tiêu đề Đế quốc Trung Quốc và Vùng lân cận phía Nam của nó (3) Cuốn sách có sự cộng tác của nhiều nhà sử học trên thế giới. Nhờ cuốn sách này, nó đã giúp những độc giả như tôi có cái nhìn chân thực hơn về lịch sử và mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. .

Tham Khảo Thêm:  cách làm slime khong can ho va dung dich ro mieng

Và cũng mong các nhà sử học Việt Nam có cái nhìn khiêm tốn khách quan hơn về sử Việt – tránh lối viết sai sự thật, khoác lác, không dẫn chứng – viết thế nào cũng được, chúng ta “vững vàng ngàn năm”. “Như tác giả Ngô Nhân Dụng.

Trong lời nói đầu của cuốn sách, tổng biên tập cuốn sách, Victor H. Mair, giáo sư tại Đại học Pennsylvania, đưa ra một vài nhận xét chính để giúp người đọc hiểu về mối quan hệ Bắc-Nam như sau:

Thứ nhất, có sự xâm lấn dần dần của miền Bắc vào miền Nam vì những tranh chấp nội bộ có xu hướng chuyển hướng về phía Nam để tìm kiếm sự ổn định hơn. Dựa trên tác phẩm của Harold J. Wiens trong: Tháng Ba của Trung Quốc hướng tới vùng nhiệt đới – xuất bản 1954 và một tài liệu khác: C.P. Fitzgerald với cuốn sách Sự bành trướng về phía Nam của người Trung Quốc (1972).

Tác giả Victor H. Mair giải thích lý do tại sao có sự bành trướng của Trung Quốc về phía nam. Đó là bởi vì đã có sự chuyển giao quyền lực từ sự sụp đổ của nhà Tây Tấn (265-316, Tây Tấn, 西晉) sang nhà Tấn (317-420, Đông Tấn, 東晉). Cuộc khủng hoảng quyền lực ở Tây Nguyên dẫn đến sự điều chỉnh địa chính trị khiến cho một thiểu số người phương Bắc cũng nhân cơ hội này tiến vào phía Nam mưu đồ bành trướng và đồng hóa.

Thứ hai, nhìn lại nhu cầu mở rộng về phía Nam trên mọi phương diện, từ địa chính trị đến văn học, nghệ thuật, thương mại đến văn hóa vật chất cho thấy không nhất thiết phải làm theo một hướng – từ Bắc vào Nam – mà tác động khác nhau – từ Nam vào Nam. – trên khắp Đông và Đông Nam Á và xa hơn nữa.

Tác giả đưa ra hai dẫn chứng cho rằng Đạo giáo và uống trà tưởng là sản phẩm từ phương Bắc – nhưng thực ra là sản phẩm của người phương Nam – thường bị người Hoa coi là mọi rợ – du nhập từ phương Bắc vào.

Công việc của các nhà sử học là tìm hiểu tại sao người Nam Bộ lại tiếp nhận và đồng hóa văn hóa Bắc Bộ, đồng thời nhận ra rằng có một dòng chảy văn hóa Nam Bộ đã hòa nhập vào dòng chính từ Bắc Bộ. Phía bắc.

Nói tóm lại, sự bành trướng về phía Nam của Trung Quốc đã được nhiều tác giả xác nhận một cách hiển nhiên.

Charles Patrick Fitzgerald trong cuốn sách Sự bành trướng về phía Nam của người Trung Quốc trong lời nói đầu nói, “Ảnh hưởng của Trung Quốc, Văn hóa Trung Quốc và sức mạnh của Trung Quốc luôn di chuyển về phía nam kể từ thời kỳ đầu tiên mà chúng ta có bằng chứng lịch sử đáng tin cậy.”(4)4

“Ảnh hưởng của Trung Quốc, văn hóa Trung Quốc và quyền lực của Trung Quốc luôn đi về phía nam ngay từ đầu niên đại khi chúng ta có bằng chứng lịch sử đáng tin cậy.”

Ở một nơi khác, ông viết:

“Việt Nam là quốc gia cởi mở nhất để Trung Quốc bành trướng và chiếm đóng bằng đường bộ. Biên giới, mặc dù đi dọc theo một dãy núi, nhưng có nhiều hơn một lối đi có thể tiếp cận được, và bờ biển chỉ là một phần mở rộng của bờ biển của tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc. Châu thổ sông Hồng, trái tim của miền Bắc Việt Nam, cũng là đồng bằng màu mỡ tốt nhất và lớn nhất ở phía nam cửa sông Dương Tử. Mọi bối cảnh dường như chỉ ra rằng quốc gia liền kề này sẽ trở thành và vẫn là một phần của thế giới Trung Quốc, và là một phần không thể tách rời của nhà nước Trung Quốc.”(5)

“Việt Nam là quốc gia cởi mở nhất đối với sự bành trướng và xâm lược của Trung Quốc trên đất liền. Mặc dù biên giới được cắt dọc theo các dãy núi, nhưng vẫn có nhiều đèo có thể đi qua và tuyến đường biển chỉ là phần mở rộng của bờ biển phía nam Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Đông. Đồng bằng sông Hồng – trái tim của miền Bắc Việt Nam – cũng là đồng bằng màu mỡ nhất và lớn nhất ở phía nam Trường Giang (sông Dương Tử). Mỗi trường hợp được trích dẫn dường như chỉ ra rằng quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc sẽ trở thành một phần và mãi mãi của Thế giới Trung Quốc, và là một yếu tố không thể tách rời khỏi Trung Quốc. .).

Tuy nhiên, khi đọc lại lịch sử Việt Nam, chúng ta gặp phải một khó khăn không thể vượt qua, đó là việc khái quát hóa các sự kiện mà không có bằng chứng lịch sử. Hầu như không thể tìm thấy bất kỳ sự thật nào trong các tài liệu lịch sử Việt Nam.

Tìm ra sự thật không hề dễ dàng.

Theo sử gia K.W. Taylor viết trong cuốn sách Một lịch sử của người Việt Nam , ông cũng nhận xét:

“Quá khứ Việt Nam đầy rẫy những nhân vật và sự kiện vừa ít người biết đến vừa nổi tiếng, và thường thì những điều ít người biết đến có tác động lớn hơn đến định hướng văn hóa, xã hội và chính trị hơn là những điều nổi tiếng. Tôi đã cố gắng vượt ra khỏi tuyên truyền về trí nhớ và tưởng niệm để hiển thị một lớp thông tin dày hơn đã được tích lũy về con người và sự kiện. Mục đích của tôi khi làm như vậy là để gợi lên cảm giác về quá khứ cũng như thời xa xưa của nó ”.

“Quá khứ Việt Nam đầy những nhân vật và sự kiện ít người biết đến và nổi tiếng, và thường là những sự kiện vẫn chưa rõ ràng có ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực văn hóa, xã hội và chính trị. hơn là nổi tiếng. Tôi đã phải cố gắng vượt ra ngoài những kiểu tuyên truyền này và trình bày nó bằng những sự thật đáng tin cậy đã được thu thập về con người và sự thật. Mục đích của tôi khi làm như vậy là để gợi lên cảm giác về quá khứ một cách sống động như thể nó đã từng ở trong quá khứ.”

Sau đây là những bằng chứng chống lại sự xâm lược của Trung Quốc trong suốt nhiều thế kỷ. Nó vừa thể hiện tính bền bỉ của kháng chiến, vừa được quần chúng nhân dân tin tưởng, làm theo. Nhưng điều đó cũng cho thấy ngay sau đó là những cuộc tranh chấp, nổi dậy tranh giành quyền lực liên tiếp xảy ra giữa các triều đại.

Tham Khảo Thêm:  Tổng hợp những mẫu rèm cửa phòng ngủ đẹp hiện đại tại REM88

Thật vậy, ba triều đại Ngô (939-965), rồi Đinh (968-980) và Tiền Lê (980-009) được coi là độc lập sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, nhưng tổng cộng chỉ hơn 70 năm. .

Trong 70 năm ấy, có biết bao xáo trộn, xáo trộn, mà theo tôi là do nước ta chưa hình thành một nhà nước có kỷ cương – một état thực sự có pháp luật và uy quyền.

Danh hiệu của Ngô Quyền chỉ là một Tư Đồ do nhà Đường ở Trung Quốc ban cho. Ông không bằng lòng và xưng vương. Sau khi xưng vương, chưa kịp trang hoàng, thi hành pháp luật của triều đại mới, Đinh Tiên Hoàng đã xưng đế.

12 năm sau, quyền lực lại rơi vào tay nhà Tiền Lê!

Có tiếng là đã độc lập, có quyền tự chủ. Trung Quốc hầu như không can thiệp vào những biến động chính trị của Việt Nam. Nhưng 70 năm với ba triều thay đổi, liệu người dân có thể yên ổn làm ăn?

Một nhận xét nữa là không chỉ nước ta loạn lạc mà cả Trung Quốc cũng vậy. Sau Tam Quốc Chí thì đến Ngũ Đại Thập Quốc (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Bắc Hán, Cựu Thục, Hậu Thục, Kinh Nam, Chu). , Nam Hán) Cho nên muốn can thiệp vào nước ta cũng không được. Điều này giải thích tại sao chúng ta bị bỏ lại một mình?

tiền đề đầu tiên : Đất nước ta đang yên bình vì có loạn lạc bên Tàu

Bả đồ Trung Hoa và láng giềng thời Hậu Đường. NguồnBy 玖巧仔 – Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra, CC BY-SA 3.0, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=18168309
Bản đồ Trung Quốc và các nước láng giềng thời Hậu Đường. SourceBy 玖巧仔 – Tác phẩm do chính người tải lên tạo, CC BY-SA 3.0, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=18168309
Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ là
Tĩnh Hải quân tự tứ sư là Khúc Thừa Dụ người Giao Chỉ

Những sự kiện ngắn gọn về ba triều đại này giúp chúng ta nhìn Lịch sử theo một cách khác. Dựa theo sách của giáo sư Nguyễn Phương – giáo sư sử học Đại học Huế – sách Việt Nam lúc ra đời để triển khai chi tiết hơn.

Nhìn chung, hướng đi của lịch sử Việt Nam cũng giống như nhiều nước khác: Một mặt chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước trước mọi cuộc xâm lược. Bên kia tìm cách bành trướng, mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam dường như bận tâm đến việc chống lại sự xâm lược hơn là bành trướng về phía nam.

Nhà Tống xâm lược Việt Nam năm 981

Tính từ đầu nhà Ngô đến nay đã hơn nửa thế kỷ.

Đây là lần đầu tiên nhà Tống sang quấy nhiễu nước ta trong năm 981. Chúng đem hai đạo quân lớn, bằng đường bộ lên Lạng Sơn, bằng đường thuỷ vào Bạch Đằng. Và cả hai đạo quân đều bị quân ta đánh bại.

Lần thứ hai, dưới thời nhà Nguyên. 1285-1288

Khoảng cách giữa các cuộc xâm lược giữa nhà Tống và nhà Nguyên là gần ba thế kỷ – một khoảng thời gian khá dài so với đời người. Sở dĩ lâu như vậy là vì vua Tống có tư cách không muốn kéo quân sang nước Việt. Họ chỉ phản bác và khuyên răn vua và các quan của Việt Nam.

Tiếp đó, nhà Lý lên ngôi – do Lý Công Uẩn cướp ngôi vua khai quốc công thần. Nhà Lý sau đó trải qua 9 đời từ năm 1010 đến năm 1224. Đây cũng là thời kỳ hưng thịnh của các vua và quan lại nhà Lý với sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo.

tiền đề thứ hai : Sở dĩ người Tàu kéo quân sang đánh chiếm Việt Nam là do phía Việt Nam có nội loạn, xâu xé lẫn nhau, tranh giành quyền lực. Trừ trường hợp nhà Nguyễn, tất cả các lần họ kéo quân vào đều do tình hình chính trị Việt Nam mở đường cho việc Bắc phạt.

Những oan khiên gây chia rẽ hận thù giữa trong tộc hay ngoài tộc là cớ để người Tàu nhòm ngó Việt Nam. Đó là trường hộp Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, thời Lê Quý Ly tiêu diệt nhà Trần, thời Tây Sơn hoành hành mỗi khi bắc phạt.

Nếu chúng ta không cử người sang cầu cứu, cầu xin thì sẽ không có chuyện quân Tàu sang nước ta.

Điều đó đã xảy ra nhiều lần với một quốc gia nhỏ bé và trở thành như một số phận bạc nhược để rồi lại than thở, phàn nàn. CSVN huênh hoang 1000 năm chống Tàu mà quên rằng chính Hồ Chí Minh đã một mình sang Mạc Tư Khoa, rồi qua Tàu để cầu xin họ giúp đánh Pháp. Chống Pháp hay chống Mỹ sau này cũng nhờ Tàu. Bài học lịch sử rõ ràng rành rành như thế, làm sao họ quên được?

Và lịch sử đã chứng minh rằng trong những tình thế hỗn loạn như vậy, người Trung Quốc bất kể là nhà Tống hay nhà Minh hay nhà Thanh hay Mao Trạch Đông đều lợi dụng tình thế để điều binh ra đánh.

Gánh nặng lịch sử của mối đe dọa Trung Cộng bây giờ là những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam chứ không phải người dân Việt Nam.

Hồ Quý Ly gạt Trần Nghệ Tông, giết Trần Thuận Tông, cướp ngôi Trần Thiếu Đế. Tất cả những việc làm vô đạo đức và lừa đảo này áp dụng cho Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử nước ta có hai họ Hồ, cả hai đều xây dựng quyền lực bằng sự lừa bịp chứ không phải thực tài.

Làm sao có một Lê Lợi thứ hai trong tình thế nước sôi lửa bỏng này? Người dân đã mất niềm tin vào người lãnh đạo. Trong khi đó, Trung Quốc không mở đủ đập thượng nguồn để biến đồng bằng sông Cửu Long thành khô hạn.

Còn bây giờ nếu ngồi cộng lại sẽ thấy thời gian chống Tàu và thời gian chống nhau, thời gian chống nhau gần như chiếm đa số.

Làm tinh tinh không khó để thấy Trịnh-Nguyễn phân tranh bao nhiêu năm? Tây Sơn-Nguyễn Ánh đối đầu nhau bao nhiêu năm, giữa cộng sản và Quốc Gia bao nhiêu năm?

Cho nên câu chuyện 1.000 năm hay 100 năm vẫn chỉ là chuyện nhỏ.

Câu chuyện chính không phải giữa Địch và Ta, mà là Ta và Ta. Giữa người Việt với người Việt.

Về lịch sử 100 năm chống thực dân Pháp

Tham Khảo Thêm:  bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên mầm non violet

Để có một khái niệm tương đối chính xác về sự hiện diện của người Pháp ở Việt Nam, hãy thử lập bảng tổng kết 100 năm triều Nguyễn và 100 năm người Pháp đến đô hộ nước ta?

Khi viết những dòng này, tôi có dịp đọc cuốn sách của anh Nguyễn Xuân Thọ, Bước đầu thiết lập hệ thống thuộc địa của Pháp ở Việt Nam , xuất bản năm 2002, Paris và gần đây nhất là của Nguyễn Quốc Trị để bênh vực Nguyễn Văn Tường, cuốn sách có nhan đề, Nguyễn Văn Tường (1824-1886) – Nhà Nguyễn chống thực dân Pháp . Tôi vừa có dịp đọc bài giới thiệu của Thụy Khê.

Dường như các tác giả vẫn muốn bênh vực một phần tinh thần yêu nước của các quan lại trong triều, đồng thời gián tiếp nói về một điều không tiện nói ra.

Để lấy cớ, họ nói lên âm mưu đồng hóa tăng lữ với các thế lực thực dân, từ đó phủi sạch trách nhiệm cũng như sự bất lực, bạc nhược của vua quan triều Nguyễn. đồng thời muốn phủ nhận những đóng góp của Bá Đa Lộc cho Nguyễn Ánh.

Tại sao phải làm như vậy, tôi không biết.

Nhưng triều đình nhà Nguyễn, thay vì đối đầu trực tiếp với Pháp, lại tìm giải pháp dễ dàng là thủ tiêu giáo dân và giáo sĩ.

Tôi có thể thành thật nói rằng hầu hết giáo dân lúc bấy giờ đều là dân chài lưới, dốt nát và nghèo khổ.

Chúng không đủ tư cách bán nước.

Theo tác giả Nguyễn Duy Chính: “Quan điểm này còn nhiều điểm cần đánh giá lại”. (6)

Một quan điểm dựa vào một hai giáo sĩ mượn tay người Pháp để có cơ hội truyền bá đạo mà các bậc tiền bối như Cao Huy Thuần cũng đã nêu ra trong luận điểm của mình.

Hàng trăm nhà truyền giáo thuộc mọi quốc tịch đã đến Việt Nam truyền giáo từ thế kỷ 15 trước khi người Pháp đến. Mà chỉ giáo sĩ người Pháp? Và chủ nghĩa thực dân đã có mặt ở hàng trăm quốc gia trên thế giới! Rồi ở các nước đó, phải chăng thực dân cũng mượn tay các giáo sĩ để có cớ chính đáng xâm chiếm các nước đó? Xin hãy nghĩ xa hơn một chút!

Bài viết của tôi không có mục đích tranh luận về lịch sử, về chính sách của người Pháp ở Việt Nam. Chỉ là đưa ra một số sự kiện tự nó nói lên để giúp người đọc chọn cho mình một thái độ thích hợp.

Đối với tôi, thế là đủ.

Nguồn: Université du Quebec
Nguồn: Đại học du Quebec

Ai cũng biết vua Gia Long lên ngôi năm 1802 có quan hệ khá tốt với người Pháp – nhất là với chí sĩ Bá Đa Lộc. Sau đó, mối quan hệ ngày càng xấu đi. Nhưng ít nhất, phải đến năm 1862 (Hiệp ước Nhâm Tuất) và Hòa ước Giáp Tuất (1874), người Pháp mới thực sự có mặt.

Triều đại nhà Nguyễn – trong hơn nửa thế kỷ – 1802-1862 đã xây dựng được gì cho Bắc Kỳ, Nam Kỳ và cả Trung Kỳ?

Đó là điều chúng ta phải cố gắng tìm hiểu.

Người Pháp chỉ thực sự chủ động từ năm 1862.

Và từ lúc này cho đến khoảng năm 1905 là 43 năm.

Họ đã mang lại một bộ mặt hoàn toàn mới cho ít nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Tôi đã có cơ hội đọc cuốn sách La Colonization agricole au Viet Nam của Steve Déry (7). Trong đó, tác giả trình bày tổng quan về nạn phá rừng, sử dụng lao động người dân tộc thiểu số hòa nhập với dân bản địa, hay đưa một số người di cư từ Bắc vào Nam làm công nhân cao su.

Khu đồn điền cao-su của Pháp. Nguồn: http://www.quanloi.org/
Đồn điền cao su của Pháp ở phía bắc Sài Gòn (màu xanh, 1931). Nguồn: http://www.quanloi.org/

Đây là chương trình kinh tế đồng thời xóa đói, giảm nghèo.

Nếu ai đã có dịp sống ở vùng quê Bắc Bộ sẽ hiểu thế nào là nghèo. Không có cơm để ăn, không có áo để mặc. Người nông dân có khi chỉ đóng khố. Làm lụng vất vả thay trâu cày. Chết không có đất chôn. Khổ trăm chiều!

Làm ơn đừng có tự ái dân tộc. Hãy nhìn vào tình hình thực tế lúc đó.

Trong mắt tôi, đây chỉ là một chính sách kinh tế, giải quyết đói nghèo. Chỉ thế thôi.

Phải chăng các vua nhà Nguyễn đã có một kế hoạch, một chính sách xóa đói giảm nghèo như vậy? Đầu óc của các vua và các quan nhà Nguyễn còn đen tối và ngu xuẩn – một chữ Tàu – làm sao có những kế hoạch kinh tế như vậy?

Tôi đã có kinh nghiệm sống trong các đồn điền cao su. Tôi đã nói là có bằng chứng. Cảnh đánh đập công nhân ngày xưa có thể có, sau này không thấy nữa. Đôi khi có đoàn cải lương lưu động ở Sài Gòn, ai có tiền là đi hát. Nhà thờ cũng có. Thỉnh thoảng, một ông cố sẽ trở lại. Cuộc sống không phải lo lắng về mọi mặt. Cộng sản không thể xâm nhập vào bất cứ ai.

Mỗi công nhân khai thác mủ được cấp một ngôi nhà gạch hai chái để ngủ, ăn và tiếp khách. Phía sau có bếp và nhà vệ sinh. Nhà bếp sạch sẽ và ngăn nắp. Gạo và các nhu yếu phẩm như mắm, cá khô… được Sở Điền cung cấp với giá rẻ mạt. Trẻ em có trường học, được chăm sóc sức khỏe miễn phí và được trả lương cho từng bữa ăn. Thịt, cá, rau củ quả đều có chợ, ai có tiền thì mua, không thiếu. Buổi chiều, mọi người cạo mủ, các cô giáo và các chú đi bộ trên những con đường quanh làng. Trẻ em và người lớn có một sân bóng và thường tổ chức các trận đấu với bạn bè. Có một nghĩa trang cho người chết.

So với cuộc sống ngoài Bắc, bữa đói bữa no, lo từng bữa ăn thì đây phải nói là thiên đường. Bất cứ điều gì khác với những gì tôi viết thường là tuyên truyền của cộng sản vào thời điểm đó. Không có sốt rét, không có nước của mẹ!

Khu chung cư của thợ mủ cao su (người từ miền Bắc) ở Đồ điền Quản Lợi. (1931). Nguồn:  http://www.quanloi.org/
Xóm công nhân cao su (người Bắc) ở đồn điền Quản Lợi. (1931). Nguồn: http://www.quanloi.org/
Nhà của công nhân đồn điền Lộ Ninh. Nguồn: http://belleindochine.free.fr/
Nhà công nhân đồn điền Lộc Ninh (Khoảng 1930). Nguồn: http://belleidochine.free.fr/

(Còn phần 4b)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, vui lòng đọc “Quy định đăng lại bài viết từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài viết và ghi chú của tác giả. DCVOnline biên tập và minh họa.

(1) Lý Quang Diệu, “Từ thế giới thứ ba đến thế giới thứ nhất”, tr. 316
(2) Lý Quang Diệu, Sđd, tr. 310-311
(3) Victor H. Mair và Liam C. Kelley, Ed., “Imperial China and Its Southern Neibourghs”, phối hợp với nhiều nhà sử học khác, xuất bản bởi Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore 2015
(4) C.P. Fitzgerald, “The Southern Expansion of the Chinese People”, trang mở đầu.
(5) C.P. Fitzgerald, Sđd., tr. 19.
(6) Nguyễn Duy Chính, “Góp phần cải cách ở Gia Định của Giám mục Pigneau de Beshaine”, trang 2
(7) Steve Déry, “La colonistion agricole au Vietnam”, NXB Presses de l’Université du Québec, 2004.

Related Posts

99+ Ảnh Avatar Đôi CUTE Cặp [XỈU NGỌT] Dành Cho 2 Người

Một bức tranh hình đại diện kép dễ thương – Ảnh đại diện của cặp đôi [XỈU NGỌT] đẹp, cực ngầu cho những ai đang đắm chìm…

999+ Hình Ảnh Avatar Đen Nhìn Cực Đẹp, Cực Ngầu, Chất Độc Lạ

Ảnh avatar màu đen cực đẹp cho mọi phong cách: ngầu, chất chơi, độc, hiếm hay tâm trạng buồn cho người dùng cá tính. Ảnh avatar màu…

Top những game bóng đá hay nhất mà ai cũng muốn trải nghiệm

Người hâm mộ bóng đá ngày nay ngoài việc được xem trực tiếp các trận đấu mình yêu thích khi đến sân hoặc qua tivi để thỏa…

Những cặp anh em nổi tiếng trong lịch sử bóng đá

Bobby và Jack Charlton; Giuseppe và Franco Baresi; Frank và Ronald de Bury; Gary và Phil Neville… được coi là cặp anh em huyền thoại trong lịch…

Bật mí những lợi ích khi sử dụng dịch vụ đặt tiệc tại nhà

Đặt tiệc tại nhà đang được đông đảo nhiều người lựa chọn và sử dụng. Và dịch vụ nấu tiệc tại nhà đang trở thành xu hướng mới trong cuộc…

Phun môi màu cam đất có đẹp không? Những ai phù hợp với phun môi màu cam đất

Phun môi màu cam là một trong những xu hướng trang điểm môi hiện nay của nhiều người, nhất là đối với những cô nàng cá tính…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *